Alexander vô địch mùa giải, hậu vệ xuất sắc nhất trong một mùa giải?
Chức vô địch, MVP, FMVP, những danh hiệu này là điều mà nhiều tuyển thủ đã theo đuổi cả đời và nhiều siêu sao đã phải vật lộn để có được chúng trong hơn mười năm. Nhưng đối với Alexander, tay át chủ bài của đội Thunder đã hoàn thành Super Grand Slam chỉ sau một mùa giải.

Nhìn lại màn trình diễn đáng kinh ngạc của Alexander ở mùa giải trước, anh ấy đã giành được danh hiệu ghi bàn với trung bình 32,7 điểm mỗi trận. Anh ghi hơn 20 điểm trong 72 trận liên tiếp, vượt qua Durant và Jordan để lập kỷ lục dài thứ tư trong lịch sử NBA. Ngoài ra, có 49 lần đạt hơn 30 điểm trong một trận đấu, 13 lần đạt hơn 40 điểm trong một trận đấu và 4 lần đạt hơn 50 điểm trong một trận đấu, tất cả đều là cao nhất giải đấu.
Khái niệm 50 điểm bốn lần trong một trận đấu là gì?
Nói một cách đơn giản, Alexander đã vượt qua hơn 50 lần trong sự nghiệp của O'Neal, David Robinson, Olajuwon và Nowitzki trong một mùa giải.
Là một đội có 68 trận thắng trong một mùa giải và tỷ lệ chiến thắng trung bình là 12,8 điểm mỗi trận, Thunder thường dẫn trước trong 3/4 trận đấu đầu tiên. Alexander rời cuộc chơi sớm trong hiệp 3 sau 17 trận, nhưng dù vậy, hiệu suất ghi bàn cũng đủ khủng khiếp. Tổng số điểm ghi được chỉ trong 3 quý đầu tiên xếp thứ 2 trên BXH.

Nhưng trong suốt mùa giải, Alexander liên tục gây tranh cãi về những quả ném phạt và từng bị người hâm mộ nghi ngờ. Quả thực, anh ấy có một số hành động phạm lỗi quá đáng, nhưng hầu hết các quả ném phạt của anh ấy đều đến từ sự tiếp xúc vật lý trong đường đột phá.
NBA đã tính số lần đột phá trong mỗi trận đấu từ mùa giải 2013-14. Trong số năm đột phá hàng đầu trong một mùa giải, chỉ riêng Alexander đã chiếm tới bốn trong số đó. Mùa trước, Alexander có 20,6 lần đột phá, bỏ xa người xếp thứ hai là Brunson với 17,8.
Với tư cách là người dẫn đầu về số điểm, tổng số điểm trong mùa giải của Alexander cũng đứng đầu giải đấu, vượt xa người xếp thứ hai là Edwards gần 300 điểm. Ngay cả khi tất cả các quả ném phạt của cầu thủ bị loại bỏ, Alexander vẫn có thể khao khát trở thành nhà vô địch ghi bàn. Ngay cả khi chỉ loại bỏ những quả ném phạt của anh, Alexander vẫn có thể đứng thứ sáu trong danh sách tổng điểm.
So sánh 24 cầu thủ đoạt MVP kể từ năm 2000, Alexander chỉ đứng thứ 12 về số quả ném phạt. Anh ấy ở mức trung bình, đây không phải là một thống kê quá đặc biệt.

Ngoài thành tích tấn công lịch sử, Alexander còn có những đóng góp xuất sắc trong phòng ngự. Cộng các pha cản phá và cướp bóng với nhau, Alexander cũng có thể đứng thứ năm giải đấu với 2,68 lần, đồng thời nằm trong top 10 giải đấu trong ba mùa giải qua.
Xét thấy rằng ngoài thành tích cá nhân, thành tích của đội cũng rất quan trọng trong việc lựa chọn MVP. Mùa trước, Thunder đã giành được 68 trận thắng trong một mùa giải trong số 5 đội dẫn đầu trong lịch sử. Họ đã dẫn trước Nuggets 18 trận, nơi Jokic đứng thứ hai trong cuộc bầu chọn MVP. Khoảng cách này đủ để Suns, đội đã bỏ lỡ trận play-off mùa trước, trực tiếp tiến lên vị trí thứ hai tại Western Conference. Khoảng cách 18 trận cũng là khoảng cách chiến thắng giữa hai đội dẫn đầu MVP, xếp thứ ba lịch sử NBA.
Nhìn vào lịch sử NBA, khoảng cách này chỉ kém khoảng cách 25 trận giữa Magic Johnson và Jordan ở mùa giải 1986-87, khi Lakers thắng 65 trận còn Bulls có 40 trận thắng; và khoảng cách 24 trận giữa Chamberlain và Nate Thurmond ở mùa giải 1966-67, khi 76ers thắng 68 trận còn Warriors thắng 45 trận.
Nhờ thành tích cao nhất của anh ấy trong cả tấn công và phòng thủ, nhiều số liệu thống kê cao cấp khác nhau thuộc hàng tốt nhất, cùng với thành tích lịch sử của đội và khoảng cách chiến thắng, đủ để giúp Alexander giành được giải thưởng cá nhân lớn nhất này từ tay Jokic.

So với những người bảo vệ MVP của giải đấu, Alexander là người bảo vệ thứ 12 trong lịch sử NBA giành được MVP. Trước anh là Bob Cousy, Oscar Robertson, Magic Johnson, Michael Jordan, Iverson, Nash, Kobe, Rose, Curry, Westbrook và Harden; Làm mục tiêu so sánh, Jordan có 5 MVP, Magic đã 3 lần vô địch và Curry là người gác đền cuối cùng nhiều lần giành được MVP gần đây.
Trình bày số liệu thống kê trung bình trong trận đấu của Alexander trong mùa giải 2024-25:
32,7 điểm, 5 rebound, 6,4 kiến tạo, 1,7 cướp bóng và 1 cản phá, hiệu suất sút 51,9% từ khi vào sân, 37,5% từ cự ly 3 điểm, 89,8% từ đường ném phạt và 56,9% từ khi vào sân.
Trong những thống kê này, khả năng bật lại, hỗ trợ và cướp của Alexander quả thực không tốt bằng nhiều hộ vệ cùng cấp, nhưng các thống kê khác về cơ bản vẫn dẫn đầu. Trung bình 32,7 điểm mỗi trận xếp thứ hai, chỉ sau 35 điểm của Jordan năm 1988; đứng thứ hai với 1 khối, sau 1,6 khối của Jordan năm 1988; và tỷ lệ ghi bàn trên sân là 51,9% xếp thứ tư, chỉ sau Jordan và Jordan năm 1988. Jordan năm 1991 và Magic năm 1987; tỷ lệ ném phạt của họ là 89,8%, xếp thứ năm, sau Curry, Nash và Magic; tỷ lệ bắn hiệu quả thực sự của họ là 56,9% xếp thứ 4, thua hai bậc thầy tấn công Curry và Nash.
Ngay cả khi anh ấy ném ba điểm không giỏi lắm, tỷ lệ sút 37,5% của Alexander mùa trước vẫn đứng thứ bảy trong nhóm người này.

Mặc dù không toàn diện như Big O và Westbrook nhưng khả năng ghi bàn trung bình, hiệu suất phòng thủ và hiệu suất sút của Alexander không thua kém hầu hết các hậu vệ đoạt MVP. Anh ta thậm chí có thể đạt được sự đàn áp thống kê toàn diện khi đối mặt với một số đối thủ. So với 3 mùa giải MVP của Magic và mùa giải vô địch đầu tiên của Jordan, họ có những điểm nổi bật riêng. Khả năng bật lại, đánh cắp và cản phá của họ tốt hơn, nhưng Alexander có lợi thế ở các khía cạnh khác.
Nhưng đối mặt với Jordan và Curry ở thời kỳ đỉnh cao, Alexander hơi gặp bất lợi. Mùa giải 1987-88, Jordan tạo ra những thống kê bùng nổ, ghi trung bình 35 điểm và 3,2 lần cướp bóng mỗi trận. Anh ấy cũng có lợi thế về số lần bật bóng, cản phá và tỷ lệ sút. Anh ấy đã đánh bại Alexander ở 5/9 số liệu thống kê. Thật không may, Jordan đã bị Waterloo trong mùa giải đó và bị Pistons loại sau 5 trận ở vòng loại trực tiếp..
Curry, người đã giành chức vô địch trong mùa giải 2014-15, là một trong số ít cầu thủ giành MVP đạt trung bình dưới 25 điểm mỗi trận, nhưng anh ấy giỏi hơn trong các pha kiến tạo, cướp bóng, ném ba điểm, ném phạt và tỷ lệ ghi bàn hiệu quả.
Nhưng ở mùa giải 2015-16, Curry có nhiều lợi thế hơn. Alexander chỉ có thể giành chiến thắng về số điểm, số lần cản phá và tỷ lệ bắn, đồng thời tụt lại phía sau sáu trong số chín thống kê. Cùng năm đó, Curry đã dẫn dắt Warriors tới 73 trận thắng và trở thành MVP nhất trí đầu tiên trong lịch sử. Đáng tiếc là anh đã không thể giành được chức vô địch cuối cùng của mùa giải. Nếu không có sự đảo ngược tuyệt vời của James và Cavaliers, mùa giải 2015-16 chắc chắn sẽ là mùa giải có thành tích một mùa giải hay nhất lịch sử NBA.

James và Jordan, hai siêu sao, đã không giành được MVP, chức vô địch và FMVP cho đến khi họ 27 tuổi. Tuy nhiên, Alexander 26 tuổi đã trực tiếp đạt được điều đó chỉ sau một mùa giải, trở thành cầu thủ cấp thần thánh thứ tư kể từ Kareem Abdul-Jabbar, Jordan và O'Neal giành được danh hiệu ghi bàn, MVP và FMVP trong một mùa giải.
Không có gì ngạc nhiên khi Alexander có được tấm vé bước vào hàng ngũ những ngôi sao huyền thoại. Điều cần tập trung trong mùa giải mới là duy trì mức độ ảnh hưởng thi đấu này, không chỉ giới hạn trong một mùa giải mà còn là sức chiến đấu ổn định lâu dài, cũng như tích lũy các danh hiệu ngôi sao.